Lịch trình tu học
Last updated
Was this helpful?
Last updated
Was this helpful?
Buddha () chỉ người đã nhờ sự sáng suốt và nỗ lực của họ, mà không cần ai khác chỉ cho biết tu luyện (Sanskrit; Pali dhamma; "cách sống đúng"). "Trở thành Phật" tức là một người đã giác ngộ, tức đã tìm ra con đường trừ bỏ mọi khổ đau, ở trong trạng thái "không học thêm nữa". Phật nghĩa là một người đã biết tất cả (), đã nắm , đã đạt đến một trình độ hoàn thiện nhất có thể tự sử dụng trí tuệ của mình để nhận thức thế giới mà không cần ai chỉ bảo.
viết:
“
”
Phật có hai mức độ giác ngộ:
(sa. pratyeka-buddha), là người giác ngộ, nhưng không có đủ khả năng giáo hóa chúng sinh về những điều mình chứng ngộ.
(sa. samyak-saṃbuddha) là bậc , không chỉ giác ngộ mà còn có thể giáo hóa chúng sinh về những điều mình chứng ngộ.
Phật giáo không xem là vị Phật duy nhất. Kinh Phật đã nói đến rất từng xuất hiện trong quá khứ, tại các thế giới khác nhau. Phật giáo không có một đấng tối cao phán xét hay có toàn quyền sinh sát. Mỗi người tự làm chủ số phận của mình bằng do của mình tạo ra, không một ai ngoài bản thân có thể phán xét, cứu vớt, xóa tội cho mình. bình đẳng trong tất cả chúng sinh, bất cứ ai cũng có khả năng giải thoát niết bàn nếu tích lũy đủ thiện nghiệp và nỗ lực tu luyện. (僧伽) của Phật giáo bao gồm (भिक्खु, 比丘, xuất gia nam), (भिक्खुनी, 比丘尼, xuất gia nữ) và (Upāsaka, tại gia Nam), (Upāsikā, tại gia Nữ)
Theo giáo lý nguyên thủy thì một hành giả đạt , khi người đó đạt được một cái nhìn vạn vật như chúng đích thật là () tức là đạt đến , với một tâm thức thoát khỏi và si mê. Trong các loại phiền não thì tham ái và vô minh, cũng được gọi là si, là những loại nặng nhất. Tham, sân và si được gọi chung là ba chất độc (), vì chúng gây ảnh hưởng lớn đến tâm thức. Vì phiền não vây phủ tâm thức nên hành giả gắng sức tiêu diệt chúng, và để tiêu diệt được thì người đó phải gắng sức đạt được tri kiến chân chính bằng cách thực hành . Khi chưa nhìn vạn vật như chúng đích thật (sự thật tuyệt đối hay còn gọi là chân đế) thì con người sẽ chấp trước, giành giật, tranh luận, tranh chấp trong các luận thuyết như người mù sờ voi vì họ chỉ nhìn một phía. Người ta chìm đắm trong các như người mê ngủ. Người thức tỉnh là người đã vứt bỏ hết mọi giáo điều để tự nhận thức vạn vật như chúng thật là (sự thật tuyệt đối của vật chất và ý thức). Không những vậy, muốn đạt được chân lý con người còn phải . Khi tâm được trong sáng là lúc trí tuệ hiện ra. Người chấp ngã sẽ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Muốn được giải thoát khỏi mọi đau khổ, an trú trong các thiện pháp, sống an lạc, không ưu phiền thì phải vô ngã.
Như Lai tuệ tri như thế này: "Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy". Như Lai tuệ tri như vậy, Ngài lại tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài không chấp sở tri ấy. Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh. Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng. Nhờ tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể phân biệt. Những pháp ấy Như Lai đã tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết.
Người tu học thực hành thiền Tứ Niệm Xứ (thiền minh sát hay còn gọi là thiền tuệ, thiền Vipassana) để thấy rõ bản chất của sự vật, đồng thời cũng không ngừng học hỏi, lắng nghe những ý kiến trái chiều và thực hành giáo pháp. Cách thực hành trong Phật giáo cũng được phân chia theo , cụ thể là tu học về giới (giới luật: giới người tại gia và giới của bậc xuất gia), định (thiền định) và tuệ (thiền tuệ, thiền minh sát). Trước hết hành giả phát lòng tin (, sa. śraddhā) vào , giữ giới luật đúng theo địa vị của mình (cư sĩ, hoặc tỳ kheo). Qua đó mà ông ta chuẩn bị cho cấp tu học kế đến là . Cấp này bao gồm bốn trạng thái thiền (). Một số cách thực hành được nhắc đến nhằm hỗ trợ bốn cấp thiền định trên, đó là , , tức là trau dồi bốn tâm thức Từ, Bi, Hỉ và Xả (cũng được gọi là Tứ Phạm trú). Cách thiền định ở cấp này được phân làm hai loại: 1. Chỉ là phương pháp lắng đọng tâm, và 2. Quán là cách thiền quán lập cơ sở trên chỉ, tức là có đạt định an chỉ xong mới có thể thành tựu công phu Quán. Phần thứ ba của tam học là tuệ học, lập cơ sở trên thiền quán. Đối tượng quán chiếu trong thiền định ở đây có thể là , nguyên lý hoặc . Ai hoàn tất Tam học này sẽ đạt được sự hiểu biết về giải thoát, biết là mình đã đạt giải thoát. Phiền não của hành giả này đã được tận diệt, các lậu hoặc đã chấm dứt (vô lậu) và hành giả ấy đạt . Khi tu học, người học Phật cần phải có sự hiểu biết trong Pháp học (toàn bộ tam tạng Pali) và Pháp Hành (Thiền Tứ Niệm Xứ). Người tu học đi theo để đạt đến giác ngộ nghĩa là xa lìa hai lối sống truy hoan và thực hành ép xác khổ hạnh. Người giác ngộ sẽ thấy được sự sinh, sự diệt của tâm và vật chất, thấy được tam tướng vô thường - khổ não - vô ngã, thấy được chân lý tứ thánh đề bằng trí tuệ thiền tuệ để đạt tới giải thoát cuối cùng là Tứ thánh đạo - Tứ thánh quả - Niết bàn.
Song song với cách tu hành theo Tam học trên ta cũng tìm thấy phương cách theo .